Thứ Tư, 05/11/2025 - 17:35
Tăng giảm cỡ chữ:

Theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 (BLTTDS), có những trường hợp nguyên đơn không được quyền khởi kiện lại vụ án dân sự

Theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 (BLTTDS), có những trường hợp nguyên đơn không được quyền khởi kiện lại vụ án dân sự. Quy định này thể hiện nguyên tắc “một vụ việc chỉ được xét xử một lần”, bảo đảm tính ổn định của phán quyết tư pháp và tránh tình trạng lạm dụng quyền khởi kiện, gây tốn kém thời gian, chi phí của các bên và của Nhà nước.

Cụ thể, khoản 1 Điều 218 BLTTDS năm 2015 quy định rõ:

“Khi có quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự, đương sự không có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết lại vụ án dân sự đó, nếu việc khởi kiện vụ án sau không có gì khác với vụ án trước về nguyên đơn, bị đơn và quan hệ pháp luật có tranh chấp.”

Như vậy, khi Tòa án đã ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án, nguyên đơn không thể tiếp tục khởi kiện lại cùng một vụ việc nếu các yếu tố của vụ án (nguyên đơn, bị đơn, quan hệ pháp luật tranh chấp) không thay đổi.

Tuy nhiên, pháp luật cũng quy định một số trường hợp ngoại lệ, cho phép nguyên đơn được khởi kiện lại dù Tòa án đã từng ra quyết định đình chỉ. Các trường hợp ngoại lệ này được nêu rõ tại khoản 1 Điều 218, theo đó:

“Nguyên đơn được quyền khởi kiện lại vụ án dân sự trong các trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 192, điểm c khoản 1 Điều 217 của Bộ luật này và các trường hợp khác theo quy định của pháp luật.”

Để hiểu rõ hơn, cần đối chiếu với các điều luật có liên quan:

  • Khoản 3 Điều 192 BLTTDS năm 2015 quy định:

    “Trường hợp trả lại đơn khởi kiện theo quy định tại khoản 1 Điều này, sau khi đã khắc phục được các thiếu sót, người khởi kiện có quyền nộp lại đơn khởi kiện.”
    Nghĩa là, nếu trước đó Tòa án trả lại đơn khởi kiện vì lý do hình thức (ví dụ: chưa đủ điều kiện khởi kiện, sai thẩm quyền, thiếu tài liệu, chứng cứ…), thì sau khi người khởi kiện khắc phục các thiếu sót, họ vẫn được nộp lại đơn khởi kiện và vụ án sẽ được xem xét như một vụ việc mới.

  • Điểm c khoản 1 Điều 217 BLTTDS năm 2015 quy định về việc đình chỉ vụ án do nguyên đơn rút đơn khởi kiện:

    “Nguyên đơn rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện; nếu Tòa án đã ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án mà nguyên đơn khởi kiện lại vụ án đó thì Tòa án chỉ thụ lý khi việc rút đơn khởi kiện lần trước không thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này.”
    Cụ thể, khoản 2 Điều 217 quy định rằng nếu nguyên đơn đã rút đơn khởi kiện lần thứ hai, thì sẽ không được khởi kiện lại vụ án đó nữa. Như vậy, việc khởi kiện lại chỉ được chấp nhận khi nguyên đơn rút đơn lần đầu và vụ án chưa được giải quyết bằng bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật.

Ngoài ra, ngoài các trường hợp được nêu tại Điều 218, pháp luật cũng quy định một trường hợp đặc biệt khác mà nguyên đơn không có quyền khởi kiện lại, đó là vụ án đã được Tòa án nước ngoài giải quyết bằng bản án, quyết định hợp pháp.

Căn cứ điểm d khoản 1 Điều 472 BLTTDS năm 2015, quy định:

“Tòa án Việt Nam trả lại đơn khởi kiện hoặc ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án nếu vụ án thuộc thẩm quyền chung của Tòa án Việt Nam nhưng có căn cứ xác định vụ án đó đã được Tòa án nước ngoài ra bản án, quyết định.”

Điều này có nghĩa là nếu một vụ việc dân sự đã được Tòa án nước ngoài có thẩm quyền hợp pháp giải quyết, thì nguyên đơn không thể khởi kiện lại tại Tòa án Việt Nam về cùng một quan hệ pháp luật, trừ khi bản án, quyết định của Tòa án nước ngoài không được công nhận hoặc không thể thi hành tại Việt Nam theo quy định của pháp luật.

Tổng hợp lại, theo Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, nguyên đơn không được khởi kiện lại vụ án dân sự trong các trường hợp sau:

  1. Vụ án đã được Tòa án ra bản án hoặc quyết định có hiệu lực pháp luật (Điều 192, Điều 217 BLTTDS).

  2. Vụ án đã bị đình chỉ giải quyết và vụ án sau không khác về nguyên đơn, bị đơn, quan hệ pháp luật tranh chấp (khoản 1 Điều 218 BLTTDS).

  3. Nguyên đơn rút đơn khởi kiện lần thứ hai và Tòa án đã ra quyết định đình chỉ vụ án (điểm c khoản 1 và khoản 2 Điều 217 BLTTDS).

  4. Vụ án đã được Tòa án nước ngoài ra bản án, quyết định hợp pháp (điểm d khoản 1 Điều 472 BLTTDS).

Tất cả những quy định này nhằm bảo đảm tính dứt khoát của phán quyết tư pháp, tránh tình trạng khởi kiện trùng lặp, đồng thời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên đương sự trong khuôn khổ pháp luật.

Đánh giá post này

Liên hệ với chúng tôi

Mở Đóng
Gọi tư vấn
Yêu cầu gọi lại